Effect is wonderful of frankincense, aloe. (Uses magic of frankincense, public men)
Công dụng kỳ diệu của trầm hương, kỳ nam
Trầm hương. Ảnh: Thanh Niên. |
Trầm hương được Đông y coi là một vị thuốc rất quý. Trầm giúp bổ dương, bổ thận khí, chữa yếu sinh lý ở đàn ông, trợ tim, trị tiêu chảy, chống nôn...
Theo lương y Huỳnh Văn Quang ở TP HCM, trầm hương, kỳ hương (kỳ nam) từ gỗ thân già mục của cây trầm gió chuyển hóa mà thành; hoặc do một loại nấm gây nhiễm mục nát thân cây trầm gió rồi chuyển hóa tạo nên.
Cũng có giả thuyết cho rằng, thân cây gió bị bọng, những con ong, con kiến làm tổ ở đó, đưa mật về ăn. Hương mật ấy ngấm vào thịt của cây gió lâu ngày mà kết thành kỳ nam.
Đông y phân loại trầm tốt xấu bằng cách: Nếu cho vào nước, trầm chìm xuống tận đáy là trầm tốt nhất; bỏ vào nước mà lơ lửng, không chìm, không nổi là trầm loại 2; còn trầm loại 3 là loại nổi trên mặt nước. Đông y thường dùng trầm loại 2 làm thuốc (vì loại 1 có giá rất cao).
Kỳ hương được phân ra làm những loại: hắc kỳ (có màu đen, là loại đắt tiền nhất); thanh kỳ (màu xanh xanh, còn gọi là hoàng kỳ) và bạch kỳ (màu trắng đục). Trầm loại tốt có sắc đen, bóng, nặng trịch như khối sắt. Kỳ cũng nặng vậy, nhưng thường có tinh dầu rịn ra bên ngoài ươn ướt. Trên thị trường, có khi người ta giả trầm "xịn" bằng cách, lấy trầm loại 3 khoan một lỗ thật sâu chế chì vào trong đó và bít lại, rồi xoa tinh dầu trầm, đánh bóng. Không rành rất khó mà nhận biết.
Công dụng của trầm - kỳ
Trầm - kỳ có mùi thơm hơi hắc, đặc biệt khi đốt sẽ cho mùi thơm tinh dầu trầm không thể lẫn lộn với một loại hương thơm nào khác. Những vật phẩm chế tác từ kỳ có hương thơm gần như là mãi mãi. Có những đồ trang sức người ta làm từ kỳ nam đeo vài chục năm vẫn còn tỏa hương thơm.
Theo lương y Huỳnh Văn Quang, tinh dầu thơm của trầm - kỳ phối với tinh dầu xạ hương (lấy từ túi thơm của con cầy hương) sẽ tạo ra một mùi hương rất đặc biệt, rất mạnh và quyến rũ. Tùy theo tỷ lệ pha chế giữa trầm - kỳ và xạ hương mà hương thơm được tạo ra sẽ có sức quyến rũ giới tính. Nếu tỷ lệ tinh dầu trầm - kỳ chiếm 85% thì hương thơm này dùng cho phái nam, vì nó cực kỳ quyến rũ phái nữ. Với tỷ lệ pha trộn ngược lại (kỳ - trầm chỉ chiếm 15%), thì hương thơm phối trộn tạo ra sẽ dành cho nữ giới, vì nó có sức lôi kéo phái nam.
Trong Đông y, người ta thường dùng trầm để làm thuốc hơn là kỳ, bởi kỳ quá hiếm và đắt tiền. Trầm có vị đắng, khí giáng xuống (chìm xuống). Còn kỳ thì có vị ngọt, khí bốc lên. Trầm giúp bổ nguyên dương, bổ thận khí, trợ sức cho công năng của tỳ thận. Ngoài ra, nó còn có tác dụng trợ tim, mạnh tim, lợi tiêu hóa, trị tiêu chảy, chống nôn; tác dụng rất hay trong trường hợp hen suyễn thở dốc. Người có chứng âm hư hỏa vượng (đang sốt, khô gầy) tuyệt đối không được dùng trầm.
Trong Đông y, người ta thường dùng trầm để làm thuốc hơn là kỳ, bởi kỳ quá hiếm và đắt tiền. Trầm có vị đắng, khí giáng xuống (chìm xuống). Còn kỳ thì có vị ngọt, khí bốc lên. Trầm giúp bổ nguyên dương, bổ thận khí, trợ sức cho công năng của tỳ thận. Ngoài ra, nó còn có tác dụng trợ tim, mạnh tim, lợi tiêu hóa, trị tiêu chảy, chống nôn; tác dụng rất hay trong trường hợp hen suyễn thở dốc. Người có chứng âm hư hỏa vượng (đang sốt, khô gầy) tuyệt đối không được dùng trầm.
Kỳ nam chữa tiểu không cầm được, giúp giao hợp được lâu, rất hay trong điều trị các bệnh tiêu hóa như: đau do hơi dồn tức trong bụng, đau bụng tiêu chảy thể tả. Thường không cho chung kỳ nam với các vị thuốc khác, cũng như không qua đun nấu mà dùng bằng cách mài ra rồi uống. Người ta còn dùng kỳ nam trích tinh dầu để pha chế các loại nước hoa; làm vòng đeo tay, hạt chuỗi vừa để trang sức (hương thơm lưu giữ hằng mấy chục năm) vừa có công dụng trị gió, tránh được cảm mạo.
Một số bài thuốc:
Trị chứng xúc động mạnh gây khó thở: Bột trầm hương và nhân sâm (mỗi thứ 2 chỉ), đem hãm với một chén nước sôi khoảng 10 phút, lấy nước để uống. Phương thuốc này rất hiệu nghiệm trong trường hợp bị xúc động mạnh, khí nghịch lên trên gây khó thở.
Trị chứng nấc, nôn ói: Bột trầm hương, nhục đậu khấu, hạt tía tô (mỗi thứ 2 chỉ). Cách chế biến cũng đem hãm như trên rồi lấy nước uống, có tác dụng trị chứng nấc, nôn ói do bị lạnh, khí nghịch.
Hỗ trợ nam giới: Bột trầm hương, nhân sâm, quế nhục, ngũ vị tử và chích thảo (cam thảo đã sao) đem hãm với nước sôi để uống. Bài này dùng cho những trường hợp nam giới bị lạnh ở bụng dưới; tay, chân thường xuyên lạnh; khả năng sinh dục bị suy yếu.
Trầm hương..Kỳ nam..
DS Trần Việt Hưng
Vị thuốc với nhiều huyền thoại..
Trầm Hương và KỳNam là những sản phẩm rất quý giá và hiếm hoi được xếp vào những bảo vật.. Việc tìm Trầm đã từng là những bí mật, với nhiều huyền thoại lạ lùng.. Trầm đã được xem là hiện thân của Thiên Y Thánh mẫu Poh Naga (Thiên Y Ana của người Chàm).. Đi tìm Trầm, còn được gọi là đi điệu, và phải tuân theo những nghi lễ cúng tế đặc biệt.. như cúng Thần Rừng , kiêng cử nhiều điều mới hy vọng tìm được trầm, khi tìm được Trầm còn phải cúng tế, tạ ơn v.v...và còn phải ngậm ngải để tránh thú dữ như cọp beo (!) Trầm đã được dùng làm lễ vật để cung hiến cho Trung Hoa trong những thời kỳ Bắc thuộc, dùng làm những tặng phẩm ngoại giao (nhất là trong Thế kỷ 17). Văn chương và Tôn giáo cũng nhắc nhở đến Trầm..Lý Bạch từng viết Trầm Hương Đình bắc ỷ lan can để nhớ đến Đình Trầm, là nơi mà Đường Minh Hoàng và Dương Quý Phi thưởng ngoạn hoa mẫu đơn, nghe nhạc.. (Vì Trung Hoa không có gỗ Trầm, nên chắc..gỗ dựng Đình phải từ Việt Nam ?). Cây bois d'aloes hay Aloe wood trong Thánh Kinh, cung cấp chất trầm hương để ướp xác Chúa Jesus chính là cây Trầm của vùng Đông Nam Á (một số dịch giả đã dịch sai thành cây Lư Hội, là một cây thuốc khác hẳn..)
Trầm hương, Aquilaria agallocha, thuộc họ thực vật Thymelacaceae, còn được gọi là cây Gió Bầu. Gió bầu mọc hoang trong những vùng rừng núi miền Trung Việt Nam, tại Thừa Thiên, Quảng Nam, Bình định, Phú Yên, Phan Rang, Phan Thiết ; và hiếm hơn tại An giang, Kiên giang..Vùng nổi tiếng nhất về Trầm là Vạn Giả, Tu Bông ( Mưa Đồng Cọ, gió Tu Bông) với những ngọn gió đưa hương Trầm về tận Khánh Hoà, Nha Trang..Tại Trung Hoa, Trầm Hương được lấy từ Aquilaria sinensis (Bạch mộc hương), mọc tại vùng Quảng Đông, HảiNam , phẩm chất kém hơn Trầm của Việt Nam ..Tại Ấn Độ, trầm hương được lấy từ một cây khác hẳn :Excoecaria agallocha thuộc họ Euphorbiacea (Xem phần dưới)
Gió bầu thuộc loại cây thân mộc, cao đến 30-40 m, đường kính thân cỡ 70-80 cm. Vỏ thân màu xám tro. Lá mọc so le, phiến lá mỏng, hình bầu dục thuôn ngọn nơi gốc 8-10 cm x 3-5 cm , mặt dưới lá màu nhạt hơn mặt trên, có lông. Hoa mọc thành cụm hình tán nơi nách lá, màu trắng xám. Quả thuộc loại nang chứa 1 hạt.
Tiến trình tạo Trầm Hương và Kỳ Nam :
Trầm hương được tạo thành trên thân Gió bầu qua một số điều kiện của môi sinh chưa được hoàn toàn hiểu rõ :
Có lý thuyết cho rằng phân chim rơi xuống, tụ lại tại những nạng ba nơi thân, nhánh lớn gây bệnh cho cây : cây tiết ra chất dầu, tụ lại để chống bệnh, và từ đó tạo ra trầm hương.
Lý thuyết cơ học cho rằng cây phản ứng lại những vết thương ở rễ, thân cành, do thợ rừng chặt, đẽo, bằng cách tiết ra chất nhựa quanh vết thương, qua hàng chục có khi hàng trăm năm, kết hợp với nắng mưa, sương gió..nhựa ngấm dần vào thân cây.. để tạo ta Trầm, Kỳ..
Lý thuyết có căn bản nhất cho rằng Gió bầu bị nhiễm loài nấm Cryptoshaerica mangifera, hủy hoại dần cấu tạo gỗ, quy tụ chất dầu, tạo thành nhựng túi dầu, để từ đó trở thành Trầm.. (Tuy nhiên, khi cấy nấm vào thân cây tươi lại chưa thể tạo ra..Trầm như dự tính!)
Những túi dầu tạo ra nơi thân Gió bầu có thể, tùy theo điều kiện thiên nhiên để trở thành Trầm hay đặc biệt hơn thành KỳNam . Theo thời gian, dầu kết tụ càng ngày càng nhiều; cây gió có thể già và chết khô, thân mục dần và tự hủy, để lại những khúc Trầm hoặc những miếng Kỳ Nam ..
Tên gọi của những loại Trầm cũng thay đổi :
Trầm mắt kiếng để gọi những khúc gỗ có lỗ và lởm chởm..
Tốc là tên gọi những khúc gỗ thơm do dầu bắt đầu quy tụ tạo thành những đốm : nếu đốm hình dạng như hoa thì gọi là Tốc hoa; đốm đen đều, như bồ hóng thì là Tốc lọ nghẹ.. rồi còn Tốc đá, Tốc hương v.v..
Kỳ nam cũng được phân hạng khác nhau tùy theo màu sắc khi cắt ngang miếng gỗ chứa dầu : Bạch kỳ nam, lõi cắt ngang màu mốc trắng ngà, mềm nhiều dầu được xem là quý nhất, rồi đến Thanh kỳ nam, màu xanh; Huỳnh kỳ nam vàng, cứng và Hắc kỳ nam, màu đen, cứng chắc..
Thành phần hóa học :
Thành phần chính là Tinh dầu (13%) trong đó có Benzylaceton (26%); Methoxy benzylaceton (53%); Alcohol terpenic (11%) và Cinnamic acid cùng các chất dẫn xuất., anisic acid.; Agarospirol, Agarol, Agarofuran, Agarotetrol, Nor-ketoagarofuran..
Tinh dầu trích từ Aquilaria sinensis còn có thêm những Sesquiterpinoid như Isobaimuxinol, những chất chuyển hóa loại 2-(2-phenylethyl) chromone.
Tác dụng Dược học :
Trầm, theo Y học Tây Phương, hầu như không có tác dụng dược học đáng kể và chỉ là nguyên liệu quý trong kỹ nghệ nước hoa, mùi hương.. làm nhang (hương) loại tốt dùng cúng tế. Tuy nhiên những nghiên cứu mới tại Nhật và Trung Hoa cũng tìm được vài dược tính đáng chú ý:
Tác dụng trên Hệ Thần kinh trung ương :
Nghiên cứu tại Viện Đông Y Hyogo (Nhật) so sánh các trích tinh Gỗ trầm bằng benzen, chloroform. Petroleum ether và nước cho thấy trích tinh bằng benzen có khả năng làm giảm hiệu ứng tạo cử động đột ngột ( hậu quả từ tác động kéo dài thời gian ngủ gây ra bởi hexobarbital); làm hạ nhiệt độ cơ thể, và ức chế được các phản ứng gây ra khi cho uống acetic acid nơi chuột thử nghiệm..Những tác dụng này được cho là do ở phản ứng gây đè nén Thần kinh trung ương (Planta Medica Feb-1993).
Tác dụng trên các Phản ứng dị ứng :
Nghiên cứu tại Đại học Dược Wonkwang (Iksan, Nam Hàn) ghi nhận trích tinh gỗ Trầm bằng nước có tác dụng giài trừ dị ứng khá mạnh : ức chế được các phản ứng dị ứng ngoài da, dị ứng tạo ra bởi hợp chất 48/80 và ức chế được sự bài tiết histamine từ các tế bào mast cell nơi màng phúc toan của chuột. (J.Ethnopharmacology Sep-1997).
3- Tác dụng Kháng u-bướu : Theo Journal of Natural Product (Sep 1981) các chất glycerid 1,3-dibehenyl-2-ferulul và 12-O-n-deca-2,4,6-trienol phorbo-1,3-acetate trong gỗ Gió bầu có tác dụng diệt được các tế bào bướu ung thư.
Khả năng kháng vi trùng:
Nước sắc trầm hương có khả năng ức chế rất mạnh sự tăng trưởng của các vi trùng Mycobacterium tuberculosis (Lao) và Shigella flexneri.
Trầm hương trong Đông dược :
Theo Đông Y cổ truyền trầm hương (Chen xiang; Nhật dược gọi là Jinko Đại Hàn là Chimhyang) có vị cay/chua, tính ấm và tác dụng vào các kinh mạch thuộc Thận, Tỳ và Vị. Trầm hương được ghi chép trong Minh Y Biệt Lục như một vị thuốc thượng đẳng.
Trầm hương có những tác dụng trị liệu :
Kích khởi sự chuyển động của Khí, và làm giảm đau nhức: khi Khí bị ứ tắc với những triệu chứng đau, căng tức, hay nặng ứ nơi vùng thượng vị và bụng dưới. Trầm hương rất hữu hiệu trong các trường hợp nhiễm Hàn do Suy và Ứ Huyết. Thường dùng phối hợp với Ô Dược (Wu-yao= Linderae Strychnifoliae) để trị đau và căng tức bụng dưới, tức ngực..
Hướng và dẫn Khí loạn về phần Hạ, đồng thời điều hòa phần Trung trong các trường hợp Khí loạn gây khò khè, tạo buồn nôn, tức bụng và nấc cụt vì hàn do suy Khí nơi Tỳ và Vị. Dùng phối hợp với Semen Raphani Sativi (Hạt cải củ = La bặc tử) , để trì khò khè do Khí nghịch gây ứ tắc nơi Phế hay do Thận suy không điều hòa được Phế khí. Dùng chung với Folium Perillae (Lá tía tô) để trị nấc cụt do lạnh bao tử hay lạnh do suy Tỳ, suy Vị.
Giúp Thận thu nạp Khí (năng liễm nạp Khí xuống, tăng sức vận hòa của Thận và Tỳ), bổ Thận khí : dùng trị Suyễn và khò khè do Thận suy.
Trầm hương được dùng trong các toa: Si mo Tang và Jie Zhen tang
Ghi chú :
Đông dược (nhất là tại Đài loan) và Dược học Ayurvedic cũng dùng một dược liệu khác Excoecaria agallocha thuộc Họ Thực vật Euphorbiaceae để thay thế cho trầm hương. Tại Việt Nam, cây được gọi là Cây Giá: đây là một cây trung bình thuộc loại bụi mọc tại cac vùng nước lợ, rừng ven biển, các bộ phận của cây đều chứa nhựa độc, có thể dùng để thuốc cá; tuy nhiên cây lớn có thân gỗ trắng, khi già đốt có mùi thơm trầm. Tại Ấn Độ, cây được gọi là Agaru, toàn cây: ép lấy nước, nấu trong dầu dùng làm thuốc thoa trị phong thấp, phong cùi; Lá nấu lấy nước đắp vết thương lở loét.
Vài nghiên cứu về Excoecaria agallocha :
Các hoạt chất loại diterpenes (17 loại đã được ly trích từ gỗ Excoecaria) đã được thử nghiệm Tại Đại Học Dược Kyoto (Nhật) về tác dụng chống u-bướu trong đó chất đáng chú ý nhất là ent-3betahydroxy-15-beyeren-2-one có khả năng ức chế siêu vi Epstein-Barr rất mạnh, và chống bướu gây ra bởi 7,12 dimethylbenz[a] -anthracene (DMBA) thử nơi chuột (Biol Pharm Bull Dec/2001)
DS Trần Việt Hưng
Vị thuốc với nhiều huyền thoại..
Trầm Hương và Kỳ
Trầm hương, Aquilaria agallocha, thuộc họ thực vật Thymelacaceae, còn được gọi là cây Gió Bầu. Gió bầu mọc hoang trong những vùng rừng núi miền Trung Việt Nam, tại Thừa Thiên, Quảng Nam, Bình định, Phú Yên, Phan Rang, Phan Thiết ; và hiếm hơn tại An giang, Kiên giang..Vùng nổi tiếng nhất về Trầm là Vạn Giả, Tu Bông ( Mưa Đồng Cọ, gió Tu Bông) với những ngọn gió đưa hương Trầm về tận Khánh Hoà, Nha Trang..Tại Trung Hoa, Trầm Hương được lấy từ Aquilaria sinensis (Bạch mộc hương), mọc tại vùng Quảng Đông, Hải
Gió bầu thuộc loại cây thân mộc, cao đến 30-40 m, đường kính thân cỡ 70-80 cm. Vỏ thân màu xám tro. Lá mọc so le, phiến lá mỏng, hình bầu dục thuôn ngọn nơi gốc 8-10 cm x 3-5 cm , mặt dưới lá màu nhạt hơn mặt trên, có lông. Hoa mọc thành cụm hình tán nơi nách lá, màu trắng xám. Quả thuộc loại nang chứa 1 hạt.
Tiến trình tạo Trầm Hương và Kỳ Nam :
Trầm hương được tạo thành trên thân Gió bầu qua một số điều kiện của môi sinh chưa được hoàn toàn hiểu rõ :
Có lý thuyết cho rằng phân chim rơi xuống, tụ lại tại những nạng ba nơi thân, nhánh lớn gây bệnh cho cây : cây tiết ra chất dầu, tụ lại để chống bệnh, và từ đó tạo ra trầm hương.
Lý thuyết cơ học cho rằng cây phản ứng lại những vết thương ở rễ, thân cành, do thợ rừng chặt, đẽo, bằng cách tiết ra chất nhựa quanh vết thương, qua hàng chục có khi hàng trăm năm, kết hợp với nắng mưa, sương gió..nhựa ngấm dần vào thân cây.. để tạo ta Trầm, Kỳ..
Lý thuyết có căn bản nhất cho rằng Gió bầu bị nhiễm loài nấm Cryptoshaerica mangifera, hủy hoại dần cấu tạo gỗ, quy tụ chất dầu, tạo thành nhựng túi dầu, để từ đó trở thành Trầm.. (Tuy nhiên, khi cấy nấm vào thân cây tươi lại chưa thể tạo ra..Trầm như dự tính!)
Những túi dầu tạo ra nơi thân Gió bầu có thể, tùy theo điều kiện thiên nhiên để trở thành Trầm hay đặc biệt hơn thành Kỳ
Tên gọi của những loại Trầm cũng thay đổi :
Trầm mắt kiếng để gọi những khúc gỗ có lỗ và lởm chởm..
Tốc là tên gọi những khúc gỗ thơm do dầu bắt đầu quy tụ tạo thành những đốm : nếu đốm hình dạng như hoa thì gọi là Tốc hoa; đốm đen đều, như bồ hóng thì là Tốc lọ nghẹ.. rồi còn Tốc đá, Tốc hương v.v..
Kỳ nam cũng được phân hạng khác nhau tùy theo màu sắc khi cắt ngang miếng gỗ chứa dầu : Bạch kỳ nam, lõi cắt ngang màu mốc trắng ngà, mềm nhiều dầu được xem là quý nhất, rồi đến Thanh kỳ nam, màu xanh; Huỳnh kỳ nam vàng, cứng và Hắc kỳ nam, màu đen, cứng chắc..
Thành phần hóa học :
Thành phần chính là Tinh dầu (13%) trong đó có Benzylaceton (26%); Methoxy benzylaceton (53%); Alcohol terpenic (11%) và Cinnamic acid cùng các chất dẫn xuất., anisic acid.; Agarospirol, Agarol, Agarofuran, Agarotetrol, Nor-ketoagarofuran..
Tinh dầu trích từ Aquilaria sinensis còn có thêm những Sesquiterpinoid như Isobaimuxinol, những chất chuyển hóa loại 2-(2-phenylethyl) chromone.
Tác dụng Dược học :
Trầm, theo Y học Tây Phương, hầu như không có tác dụng dược học đáng kể và chỉ là nguyên liệu quý trong kỹ nghệ nước hoa, mùi hương.. làm nhang (hương) loại tốt dùng cúng tế. Tuy nhiên những nghiên cứu mới tại Nhật và Trung Hoa cũng tìm được vài dược tính đáng chú ý:
Tác dụng trên Hệ Thần kinh trung ương :
Nghiên cứu tại Viện Đông Y Hyogo (Nhật) so sánh các trích tinh Gỗ trầm bằng benzen, chloroform. Petroleum ether và nước cho thấy trích tinh bằng benzen có khả năng làm giảm hiệu ứng tạo cử động đột ngột ( hậu quả từ tác động kéo dài thời gian ngủ gây ra bởi hexobarbital); làm hạ nhiệt độ cơ thể, và ức chế được các phản ứng gây ra khi cho uống acetic acid nơi chuột thử nghiệm..Những tác dụng này được cho là do ở phản ứng gây đè nén Thần kinh trung ương (Planta Medica Feb-1993).
Tác dụng trên các Phản ứng dị ứng :
Nghiên cứu tại Đại học Dược Wonkwang (Iksan, Nam Hàn) ghi nhận trích tinh gỗ Trầm bằng nước có tác dụng giài trừ dị ứng khá mạnh : ức chế được các phản ứng dị ứng ngoài da, dị ứng tạo ra bởi hợp chất 48/80 và ức chế được sự bài tiết histamine từ các tế bào mast cell nơi màng phúc toan của chuột. (J.Ethnopharmacology Sep-1997).
3- Tác dụng Kháng u-bướu : Theo Journal of Natural Product (Sep 1981) các chất glycerid 1,3-dibehenyl-2-ferulul và 12-O-n-deca-2,4,6-trienol phorbo-1,3-acetate trong gỗ Gió bầu có tác dụng diệt được các tế bào bướu ung thư.
Khả năng kháng vi trùng:
Nước sắc trầm hương có khả năng ức chế rất mạnh sự tăng trưởng của các vi trùng Mycobacterium tuberculosis (Lao) và Shigella flexneri.
Trầm hương trong Đông dược :
Theo Đông Y cổ truyền trầm hương (Chen xiang; Nhật dược gọi là Jinko Đại Hàn là Chimhyang) có vị cay/chua, tính ấm và tác dụng vào các kinh mạch thuộc Thận, Tỳ và Vị. Trầm hương được ghi chép trong Minh Y Biệt Lục như một vị thuốc thượng đẳng.
Trầm hương có những tác dụng trị liệu :
Kích khởi sự chuyển động của Khí, và làm giảm đau nhức: khi Khí bị ứ tắc với những triệu chứng đau, căng tức, hay nặng ứ nơi vùng thượng vị và bụng dưới. Trầm hương rất hữu hiệu trong các trường hợp nhiễm Hàn do Suy và Ứ Huyết. Thường dùng phối hợp với Ô Dược (Wu-yao= Linderae Strychnifoliae) để trị đau và căng tức bụng dưới, tức ngực..
Hướng và dẫn Khí loạn về phần Hạ, đồng thời điều hòa phần Trung trong các trường hợp Khí loạn gây khò khè, tạo buồn nôn, tức bụng và nấc cụt vì hàn do suy Khí nơi Tỳ và Vị. Dùng phối hợp với Semen Raphani Sativi (Hạt cải củ = La bặc tử) , để trì khò khè do Khí nghịch gây ứ tắc nơi Phế hay do Thận suy không điều hòa được Phế khí. Dùng chung với Folium Perillae (Lá tía tô) để trị nấc cụt do lạnh bao tử hay lạnh do suy Tỳ, suy Vị.
Giúp Thận thu nạp Khí (năng liễm nạp Khí xuống, tăng sức vận hòa của Thận và Tỳ), bổ Thận khí : dùng trị Suyễn và khò khè do Thận suy.
Trầm hương được dùng trong các toa: Si mo Tang và Jie Zhen tang
Ghi chú :
Đông dược (nhất là tại Đài loan) và Dược học Ayurvedic cũng dùng một dược liệu khác Excoecaria agallocha thuộc Họ Thực vật Euphorbiaceae để thay thế cho trầm hương. Tại Việt Nam, cây được gọi là Cây Giá: đây là một cây trung bình thuộc loại bụi mọc tại cac vùng nước lợ, rừng ven biển, các bộ phận của cây đều chứa nhựa độc, có thể dùng để thuốc cá; tuy nhiên cây lớn có thân gỗ trắng, khi già đốt có mùi thơm trầm. Tại Ấn Độ, cây được gọi là Agaru, toàn cây: ép lấy nước, nấu trong dầu dùng làm thuốc thoa trị phong thấp, phong cùi; Lá nấu lấy nước đắp vết thương lở loét.
Vài nghiên cứu về Excoecaria agallocha :
Các hoạt chất loại diterpenes (17 loại đã được ly trích từ gỗ Excoecaria) đã được thử nghiệm Tại Đại Học Dược Kyoto (Nhật) về tác dụng chống u-bướu trong đó chất đáng chú ý nhất là ent-3betahydroxy-15-beyeren-2-one có khả năng ức chế siêu vi Epstein-Barr rất mạnh, và chống bướu gây ra bởi 7,12 dimethylbenz[a] -anthracene (DMBA) thử nơi chuột (Biol Pharm Bull Dec/2001)
Trung Tâm Dịch Vụ Truyền Thông
Email: huynhanhmedia@gmail.com
KỸ THUẬT TRỒNG CÂY GIÓ BẦU TẠO TRẦM KỲNAM
KỸ THUẬT TRỒNG CÂY GIÓ BẦU TẠO TRẦM KỲ
(Aquilaria Crassna Pierre ex Lecomte)
1. Đặc điểm thực vật học: cây dó bầu còn gọi là cây trầm hương, cây tóc, cây kỳ nam. Cây dó bầu cao từ 30-40m, có vỏ xám nhiều xơ, lá mọc cách, phiến lá mỏng thuôn dài hoặc bầu dục, mặt trên xanh bóng, mặt dưới xanh nhạt có lông tơ. Hoa tự hình tán, mọc chùm ở kẻ lá, màu trắng tro, quả nang, khi khô tách thành 2 mảnh, quả hình lê, mỗi quả chứa 1 – 2 hạt màu đen. Cây có tác động tạo tuyến nhựa màu đen, có mùi thơm gọi là trầm hương.
2. Điều kiện trồng cây: Khí hậu: nhiệt độ trung bình hàng năm từ 20-25OC, lượng mưa từ >1500mm/năm, ẩm độ>80%. Đất ẩm, tơi xốp, độ dày tầng đất trên 40cm,nhiều mùn. Không nên trồng trên các loại đất đá vôi, cát hoặc ngập úng.
3. Giống cây con : do quá trình khai thác bừa bãi tìm trầm, đã làm nguồn giống cây dó bầu (loại giống tỷ lệ tạo trầm kỳ cao trong tự nhiên) cạn kiệt, kéo theo một số giống dó tạo trầm khác như dó me.. cũng ít dần. Nhưng trên 10 năm qua (từ năm 1990), nguồn giống được p[hục hồi từ vườn nhà từ việc thu hạt giống, cây con tại rừng về trồng, do đó tỷ lệ lai tạp giữa các giống dó rất cao, phần lớn giữa 2 giống dó bầu và dó me. Nhưng qua khảo sát thực tế cho thấy khi cấy tạo trầm nhân tạo giữa 2 giống dó bầu và dó me (phần lớn cây thường bị lai tạp giữa 2 giống) đều cho tỷ lệ tạo trầm khác biệt không cao. Hiện nay nguồn giống cây dó thường lấy hạt từ những cây dó trưởng thành (>7 năm) tại các tỉnh hà Tĩnh, Quảng Nam, An Giang, Kiên Giang (chưa qua khâu tuyển chọn). Nên việc chọn cây dó bầu thuần chuẩn cần có thời gian cho các nhà chọn giống.
4. Kỹ thuật sản xuất cây con: Chọn hạt giống có chất lượng tốt, hạt đen bóng, tỷ lệ nảy mầm cao(>80%). Gieo hạt trên luống có thành phần cơ giới nhẹ như cát pha có pH5-6, giàn che tốt, chủ động điều chỉnh ánh sáng. Sau 30-35 ngày, cây mạ sẽ cất vào các bầu đất (hỗn hợp xơ dừa, tro trấu..)kích thước 12x16 cm. Bầu cây đặt trong vườn ươm có dàn che tránh bớt nắng và hạt mưa trực tiếp lên cây con sau khi cấy. Trong thời gian 30-45 ngày đầu sau khi cấy thường xuyên tưới nước giữ ẩm cho cây, ngày tưới 2 lần, lượng nước tưới 2-4l/m2. Sau 45 ngày đến khi cây xuất vườn lượng nước tưới giảm dần 3-5 ngày/ lần. Cây trong vườn ươm cần chú trọng đảo bầu cây khi cây ra rễ khỏi bầu thường 1lần /tháng. Giai đoạn này bón phân vào lúc chiều mát, bón xong phải tưới nước ngay để rửa sạch cây, lá. Phân bón DAP với nồng độ 1-1,5% với 2lít/m2, chỉ tưới cây từ 2 tháng tuổi trở lên, 15 ngày/ lần.
Phòng trừ sâu bệnh : bệnh thường là lở cổ rễ, thối thân, phấn trắng, cháy lá.., các thuốc sử dụng trị bệnh là Brocdeau, Basudin hoặc Baylidin theo hướng dẫn ở bao bì. Các loại sâu ăn lá, sâu đục thân có thể dùng thuốc nội hấp hoặc thuốc tiếp xúc để phòng trừ. Cây xuất vườn xanh tốt, thân thẳng, không cụt ngọn, cây cao >50cm, đường kính cổ rễ >0,4cm và bầu cây không bị mục nát đứt rễ. 5. Kỹ thuật trồng cây: đất trồng cây nên chủ động nước tưới, tránh mưa lụt úng (>1giờ).
a. Đào hố trồng: Kích thước: 40x40x30cm. Khi đào hố phải để lớp đất mặt sang 1 bên. Đào hố trước khi trồng 1 tháng sau đó lấp hố theo quy định lớp đất mặt trộn phân lắp xuống trước. Lượng phân NPK từ 0,3-0,5 kg/ hố, nên trộn với phân hữu cơ 1kg/ hố. b. Mật độ cây trồng: tuỳ loại đất có thể chọn các loại mật độ sau: 625 cây/ha: với cự ly 4x4 m; 800 cây/ha: 2,5x5 m; 1160 cây/ha: 3x3 m. Nếu trồng xen trong vườn cà phê, điều, nhãn, tiêu… mật độ từ 250 -500 cây.
c. Kỹ thuật trồng: cây đủ tiêu chuẩn trồng, tiến hành trồng sau những trận mưa đầu mùa mưa. Trồng vào những ngày mưa nhỏ, thời tiết mát dịu, ẩm là tốt. Bố trí cây trồng hình nanh sấu, chống xói mòn. Bóc vỏ bầu nylon, đặt bầu sâu hơn lớp đất tự nhiên 1-2cm. Đặt cây ngay ngắn giữa hố, lấp đất và nén chặt, vun gốc cao hơn mặt đất thường 2-3cm là vừa. Sau khi trồng xem xét dẫy cỏ quanh gốc, vun xới nhẹ nhàng chung quanh gốc cây đường kính 1-1,2m. Bón phân 2 lần vào năm 1 và năm 2 hai lần/năm với lượng phân NPK 100gr/cây. Các năm sau chỉ làm cỏ, xới đất quanh cây, tỉa bớt cành tạo dáng cho cây vươn cao, không cần bón phân vô cơ, nên tạo độ ẩm xung quanh gốc bằng phân hữu cơ.
6. Bảo vệ cây trồng: cây dó có độ tuổi trên 4 năm (đường kính>15cm) có thể cấy tạo trầm. Nên việc bảo vệ cây đến tuổi thu hoạch cần nên: Chú ý trâu bò chăn thả ăn cây con. Phòng chống cháy nhất là trong mùa khô hạn.Trung Tâm Dịch Vụ Truyền Thông
Email: huynhanhmedia@gmail.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét